A bê xê về phương thức sản xuất châu Á
Le Tran Hai’s facebook, 20/9/2014
Em
biết gì về PTSXCA?
Các
cụ tranh cãi có, rủ rỉ giảng giải có, về phương thức sản xuất châu Á (PTSXCA)
trên sách vở tiếng Việt từ lâu lắm rồi, khi em còn bé tí. Rất có thể những ý
kiến ấy có in trong những quyển sách sử em đọc, nhưng nếu có thì em đã lật
trang rất nhanh vì lịch sử với em hồi nhỏ chỉ là những ly kỳ trận đánh quân ta
giả thua cho tướng giặc đuổi theo vào đoạn có phục binh ta chém Liễu Thăng ở cổ
hay quốc công tiết chế ta mời thượng tướng ta lên thuyền tắm cho một trận hết
sạch ghét hết cả ghét nhau. Vân vân.
Lớn
lên một tí thì tò mò lịch sử kiểu như Trần Cảnh với Lý Chiêu Hoàng bé tí lấy
nhau thì làm gì nhau hay nữ giáo sư vợ bé anh hùng dân tộc qua đêm với ông vua
trẻ con trai ông vua anh hùng dân tộc nữa thảo luận những gì trong sách Khổng
Mạnh mà vua phải chết. Cho nên có gặp ai đó nói chuyện PTSXCA ắt cũng bỏ qua
thôi.
Chỉ
đến khi cánh bác Bùi Thiết với cánh bác Phan Huy Lê dàn quân ném đá nhau quãng
năm 2000-2001 với 2 quyển sách “Đối thoại sử học” (NXB Thanh Niên) và “Thực chất
của Đối thoại sử học” (NXB Thế giới) em mới chú ý đến “PTSXCA”. Cánh bác Thiết
mắng cánh bác Lê giương ngọn cờ “PTSXCA” vừa phi mác xít vừa láu cá xu thời
(hồi đó đang hô hào tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN thì lý thuyết về
sự tồn tại trong quá khứ giai đoạn chuyển tiếp PTSXCA để xã hội cộng sản nguyên
thủy tiến thẳng lên xã hội phong kiến bỏ qua giai đoạn chiếm hữu nô lệ, hẳn
được chính quyền ưa thích).
Nên
bắt đầu tò mò một chút về PTSXCA. Chỉ một chút thôi, vì đó không phải là nghề
của chàng. Nên những gì bi bô phía dưới cũng chỉ là a bê xê, dạng kể cho bé
nghe, các chuyên gia am hiểu, xin đừng cười chê.
*
Thời
em học đại học nga ngố, chưa biết PTSXCA, nhưng chẳng nhớ là trong môn gì (có
khi trong nhiều môn) có những kiến thức về 5 hình thái kinh tế-xã hội trong
lịch sử loài người, được nhồi vào đầu. Đầu tiên là cộng sản nguyên thủy, sau đó
là chiếm hữu nô lệ, sau đó là phong kiến, sau đó là tư bản, rồi cuối cùng CNXH
sẽ đưa nhân loại đến thế giới đại đồng cộng sản chung cuộc làm theo năng lực
xực theo nhu cầu.
Lý
thuyết về 5 hình thái đó là do 2 cụ Marx-Engels nói ra, 2 cụ là những nhà tư
tưởng, đã thế lại còn sống lâu, nên lúc này lúc khác có thể 2 cụ còn nói những
thứ khác không giống thế. Nhưng khi 2 cụ Lenin-Stalin lựa chọn lý thuyết đó làm
kim chỉ nam, 2 cụ lại quyền lực vô biên, nói khác cái lý thuyết đó là đứt.
Sau
này nghe mấy bác thể loại Dương Trung Quốc tạp chí Xưa Nay bảo hồi học trường
đảng Bác Hồ ta có thắc mắc phương Đông nó khác, rồi lại nghe bác Trần Trọng Tân
(mới qua đời) tạp chí Hồn Việt bảo cái bác thắc mắc không phải Bác Hồ ta.
Chuyện này không biết thực hư ra sao bỏ đó đã.
Các
sử gia miền bắc XHCN áp dụng lý thuyết 5 hình thái kinh tế-xã hội vào sử nước
mình cố tìm cho ra cái giai đoạn chiếm hữu nô lệ. Bác Minh Tranh kết luận từ
thời Thục Phán An Dương Vương (ông cụ làm vua nhờ cái móng rùa, bố vợ anh Trọng
Thủy) đến trước khởi nghĩa Hai Bà Tưng, xã hội nước ta là chiếm hữu nô lệ.
Nhiều hải đăng khoa học xã hội khác từ Nguyễn Đổng Chi đến Nguyễn Lương Bích
cũng tán thưởng điều này.
Nhưng
cụ Đào Duy Anh lại phản đối vì những dẫn chứng về nô lệ và chủ nô trong thời kỳ
này (1 bài phản đối có thể tìm đọc trong cuốn Lịch sử VN, từ nguồn gốc đến
cuối thế kỷ XIX của Đào Duy Anh hiện đang bán đầy ở Đinh Lễ) nó mơ hồ sao
sao. Lúc này thì Liên Xô Trung Quốc anh em cũng nhìn lại lịch sử các nước
phương Đông và nhiều học giả cũng nhận thấy đúng là ghép lý thuyết phương Tây
vào lịch sử phương Đông có những chỗ là hơi gượng ép.
May
mắn làm sao, những sử gia nhìn lại ấy vẫn là Marxist, họ đã tìm được những văn
bản cho thấy sinh thời Marx-Engels có nói đến những dị biệt ở xã hội phương
Đông. Marx dùng từ PTSXCA. Và các sử gia nhìn lại đưa nó vào mô hình.
Marx-Engels
nói đến PTSXCA trong những tác phẩm nào? 2 cụ không có 1 tác phẩm nào tập trung
vào PTSXCA mà chỉ bỏ nhỏ nó trong rải rác nhiều tác phẩm khác nhau giai đoạn
1859. Ví dụ trích từ lời dẫn cuốn “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”,
Marx biên: “Về đại thể có thể coi các phương thức sản xuất châu Á cổ đại, phong
kiến và tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của hình thái kinh
tế xã hội”.
Vì
các cụ viết rải nhiều nơi quá, nên tập hợp lại, ta thích cho mấy cái gạch đầu
dòng tùy ta. Dưới đây là em gạch những nét chính của PTSXCA, theo cách người ta
tổng hợp Marx.
Đó là
những xã hội có sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn, nơi không có sở hữu
tư nhân về ruộng đất. Quyền sở hữu ruộng đất thuộc về đồng chí vua, quyền sử
dụng ruộng đất thuộc về công xã. Do không có quyền tư hữu ruộng đất, không có
đất phong, đất cắt cho các chúa đất phong kiến nên những xã hội như vầy hok
phải là phong kiến.
Nhu
cầu sản xuất đòi hỏi các công trình hoành tráng như thủy lợi đê điều nên cần
những kẻ tổ chức có quyền lực, ở đây là bộ máy quan liêu nhà nước thay mặt đồng
chí vua sẽ có nhiều lộc lá hưởng các giá trị thặng dư từ các công trình tổ chức
bởi nhà nước. Xã hội do đó có kẻ bóc lột và người bị bóc lột, không bình đẳng
cá mè như xã hội cộng sản nguyên thủy.
Những
người nông dân sản xuất nông nghiệp là người tự do, không phải là nô lệ cho chủ
nô. Do vậy xã hội này cũng không phải là chiếm hữu nô lệ nốt. Tuy nhiên nền
chuyên chế phương Đông cực rắn nên cũng có thể gọi chủ nô duy nhất là đồng chí
vua, toàn xã hội là nô lệ cho đồng chí ấy: nô lệ phổ quát.
Nhiều
sử gia miền bắc XHCN được lời Marx như cởi tấm lòng bắt đầu nói đến giai đoạn
PTSXCA trong sử ta.
Cuốn
Sự thật về Đối thoại sử học điểm danh vài công trình của Phan Huy Lê, Nguyễn
Hồng Phong, Lê Kim Ngân, Đặng Phong, Trần Quốc Vượng… thừa nhận có giai đoạn
PTSXCA trong sử Việt. Cả Nguyễn Lương Bích-người từng ủng hộ thuyết về sự tồn
tại của chế độ chiếm hữu nô lệ trong sử Việt- sau đó cũng thừa nhận PTSXCA.
Trong các nhân vật tham gia thảo luận PTSXCA được biết có cả Lê Thành Khôi, 1
Việt kiều Pháp thân Hà Nội, với “Góp phần nghiên cứu PTSXCA, nước Việt Nam cổ
đại” (em không biết là sách hay bài viết và nguyên văn tên tiếng Pháp là gì, và
càng không biết quan điểm ông Khôi trong tác phẩm đó).
1
cuốn sách của Lê Thành Khôi mới được dịch ra tiếng Việt mang tên “Lịch sử Việt
Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX” (chọn dịch từ cuốn “Histoire du Viet Nam,
des origins à 1858” xuất bản năm 1982 và vài chương cuốn “Le Viêt-Nam, Histoire
et Civilisation” xuất bản năm 1955 khi ông Khôi 32 tuổi) có đoạn viết về
PTSXCA, nên phần dưới sẽ tìm hiểu kỹ quan điểm của ông Khôi về vấn đề này.
*
Lê
Thành Khôi nói về PTSXCA
Đầu
tiên ông nhắc lại quan điểm của Marx về PTSXCA:
Nét
đặc trưng của PTSXCA là sự hiện hữu của các cộng đồng làng xã một phần còn được
tổ chức trên những liên hệ máu mủ trong đó cá nhân tham gia quyền sở hữu chung
về đất đai với tư cách là thành viên của cộng đồng. PTSXCA khác với cộng đồng
nguyên thủy bởi sự xuất hiện của các hình thức khai thác làm lợi cho 1 giai cấp
thống trị và khác với chế độ chiếm hữu nô lệ bởi không có quyền tư hữu và bởi
quyền tự do của cá nhân. Cá nhân có tự do mặc dù phải đóng thuế và làm lao
dịch. Việc nhà nước có thể trưng dụng một cách rộng rãi lao động của các nông
dân ở tuổi lao dịch đã giới hạn sự phát triển của tình trạng nô lệ. Việc lao
dịch này không có cùng tính chất như trong 1 chế độ phong kiến trong đó người
nông dân đích thân lệ thuộc vào vị lãnh chúa, như chúng ta đã thấy trên đây. Ở
đây, có quan chức chứ không có lãnh chúa; họ nhân danh nhà nước đánh thuế và tổ
chức lao dịch; sự bóc lột có tính tập thể và Marx đã nói đến một thứ “tình
trạng nô lệ phổ cập hóa” của những cá nhân dưới chế độ đó.
Đoạn
này bác Khôi hiểu giống như em hiểu thuyết của Marx về PTSXCA.
*
Sau
đó bác Khôi nhận định: “thoạt nhìn”, lược đồ này áp dụng ở VN là thích hợp.
Nhà
nước chuyên chế cao ở Việt Nam trong quá khứ đã huy động được dân chúng, nghĩa
là lực lượng tạm coi là riêng của các quý tộc vào các công việc chung như chiến
tranh vệ quốc hay những công trình thủy lợi lớn. Ngay cả khi nhà vua yếu, các
thủ lĩnh lớn có nổi dậy trở thành những sứ quân độc lập, bắt các làng phải phục
tùng mình thì họ (các thủ lĩnh) cũng khác với các lãnh chúa dưới chế độ phong
kiến châu Âu:
Nhưng
quyền hành của họ không hề là thứ quyền hành của các lãnh chúa châu Âu vì những
lý do chúng ta đã đề cập đến: một phần vì số diện tích nhỏ hẹp của các thái ấp,
phần khác, vì nguyên tắc họ chỉ được làm chủ tạm thời-chứ không phải là quyền
sở hữu thế nghiệp- khiến vương quyền một khi được nắm lại sẽ thu hồi các tài
sản này; cuối cùng, con số các nông nô và nô lệ quá giới hạn để có thể làm
thành những đạo quân riêng.
Hay
như trong chuyện đắp đê, một công việc mà theo GS Khôi, “triều đại nào lơ là
đối với nhiệm vụ này bị xem như đang trên đà sụp đổ” và “các bộ sử biên
niên không bao giờ bỏ qua việc ghi lại việc đắp đê hay đào kênh” cũng là 1
công việc lao động phục vụ cho/theo chỉ đạo của nhà nước chứ không phục vụ cho
1 lãnh chúa phong kiến nào.
“Công
trình quan trọng nhất do các tỉnh thực hiện theo lệnh của Trần Thái Tông vào
năm 1248 là 1 con đê ăn ra tới biển để ngăn chặn nước lũ. Con đê này được gọi
là đê quai vạc, bởi nó có nhiều đoạn cong theo các khúc uốn của sông. 1 công
trình như vậy, dĩ nhiên, không thể được hình dung và thực hiện một cách riêng
rẽ ở cấp làng. Đồng thời, nhà vua còn đặt ra Hà đê sứ với các viên chức có
nhiệm vụ đặc biệt là canh giữ đê. Nhà nước như vậy xuất hiện như là “đơn vị tập
hợp” và phối hợp nỗ lực của các cộng đồng địa phương nhằm khuếch đại năng suất
của các công trình thủy lợi lớn”.
Cho
đến đoạn này, là xã hội VN, bề ngoài rất giống với PTSXCA theo lý thuyết của
Marx.
*
Nhưng
sau đó, bác Khôi chỉ ra những sai lầm của lý thuyết Marx về PTSXCA khi áp vào
Việt Nam.
Khái
niệm quyền sở hữu theo bác ở VN xưa không tách khỏi quan niệm triết học tổng
quát “Đất được Trời ban cho mọi người cùng hưởng” để kết luận ruộng đất
không phải là sở hữu của ông vua như các lý thuyết gia PTSXCA đã hiểu.
Bác
dẫn lời Maspero: “Nhà vua phán, không phải với tư cách người chủ sở hữu, vì
vua không phải là chủ sở hữu, mà với tư cách là vua, ban bố cho từng phẩm trật
trong hệ thống đẳng cấp tôn ti một phần của quyền chiếm hữu đất vốn thuộc về
mọi người”. Và bình luận thêm: “Dù quyền của nhà vua trong việc định
đoạt về đất có rộng tới mức nào đi nữa, nhà vua cũng không hơn các thần dân của
mình, không được quyền chuyển hướng lợi ích của đất, tước đoạt đất của dân
mình”.
Nhà
vua làm vua theo mệnh trời, và phải thực hiện mệnh. Ông không có quyền sở hữu
đất đai, theo nghĩa “quyền sử dụng, thụ hưởng, định đoạt một cách tuyệt đối và
độc quyền, không giới hạn”.
“Nhà
vua không có quyền định đoạt về đất đai theo sở thích của mình, mà chỉ được thi
hành các chức năng của vua. Chính bởi vì thực thi một chức năng thuộc lĩnh vực
công, vật chất hay tinh thần, mà những người có quyền chức lớn và giáo hội Phật
giáo nhận được đất phong, chứ không phải vì họ đã tuyên thệ trung thành với nhà
vua; họ trả lại nhà vua khi vai trò của họ chấm dứt”.
“Chính
vì phải bảo đảm cho mỗi thành viên của mình một số đất tối thiểu để sống mà
cộng đồng làng xã có quyền có đất để phân phối cho các thành viên theo định kỳ.
Các thành viên có bổn phận canh tác đất được phân bổ. Nếu đất không được canh
tác, làng có thể lấy lại và giao cho người khác. Cũng vậy, nếu 1 làng có quá
nhiều đất so với số dân, trong khi làng khác lại thiếu, nhà vua có thể chuyển
số dư này cho làng còn thiếu (điều Lê Lợi đã thực hiện vào năm 1428). Cũng vậy,
nếu 1 người làm chủ quá nhiều đất, trong khi người khác lại thiếu đất, nhà vua
có thể quyết định biến số đất dư của người này thành đất tập thể để chia cho
người dân (đó là điều Minh Mạng đã thực hiện tại Bình Định vào năm 1839). Chính
bởi vì Nhà nước thực hiện các chức năng kinh tế và quân sự mà người canh tác
phải đóng 1 thứ thuế cho nhà nước, nghĩa là đóng thuế vì được hưởng các hoạt
động này chứ không phải như 1 thứ địa tô”.
Đến
đoạn này đã rõ quan điểm của GS Khôi, không phải ông vua là chủ sở hữu của
ruộng đất.
*
Tiếp
đó GS Khôi cho rằng quyền tư hữu về đất đai đã có, muộn nhất là từ thế kỷ XII,
dẫn chiếu chỉ của Lý Thần Tông ghi trong Toàn thư. Tiếp đó, “Thế kỷ XIII,
tầng lớp đại địa chủ xuất hiện, họ dâng cúng đất cho nhà chùa, có người dâng
cúng hơn trăm mẫu cho chùa Báo Ân vào năm 1209, nhà chùa đã dựng bia để ghi nhớ
sự dâng cúng hậu hĩ này. Khi cho đắp con đê Quai vạc vào năm 1248, vua Trần
Thái Tông ra lệnh nơi nào đê phải đắp nằm trên đất tư nhân, chủ đất phải được
đền bù”.
Ông
cho rằng ở VN “sự hình thành quyền tư hữu dựa trên nguyên tắc về lợi ích xã
hội. Đất hoang thuộc về mọi người. Người khai hoang trở thành chủ sở hữu. Ngược
lại, nếu người này bỏ đi, anh ta sẽ mất quyền sở hữu của mình và QSH này sẽ
chuyển sang cho người canh tác thửa đất ấy. Chính vì đã khẩn hoang cả 1 vùng
đất dưới chân núi Lam Sơn mà tổ tiên của Lê Lợi trở thành đại địa chủ và có thể
đặt nền móng cho quyền lực của dòng họ mình. Chính bằng cách khuyến khích và cổ
vũ việc khai thác châu thổ sông Mê Kông mà các chúa Nguyễn làm nảy sinh một
tầng lớp các đại địa chủ sẽ là chỗ dựa trung thành nhất của họ chống lại Tây
Sơn. Bên cạnh hình thức nguyên thủy để có QSH này, các hình thức khác cũng xuất
hiện với sự phát triển của nền kinh tế: việc các nông dân bán đất dưới sức ép
của nợ nần hay đói khổ, việc các quant ham và hương chức tước đoạt do gian lận
hay bạo lực đất công hay tư, nhất là vào các thời kỳ nhiễu nhương”.
Và
ông bác bỏ những suy diễn hoàn toàn lý thuyết, thiếu thực tiễn của những nhà
mác-xít, ví dụ như F.Tokei “Làm sao quyền tư hữu đất đai có thể hình thành
được, trong khi không có 1 giai cấp nào, 1 tầng lớp nào của xã hội châu Á có
thể mong ước hình thức sở hữu cũ biến đi, trong khi chỉ có sở hữu cộng đồng bộ
lạc là có thể bảo đảm có thuế đóng cho hàng quý tộc gồm các quan chức?”.
Ngược
lại với Tokei, Lê Thành Khôi cho rằng “quyền tư hữu được thiết lập chính là
bởi vì nó đem lại cho quan lại và các hương chức nhiều khả năng khai thác hơn
là QSH công cộng. QSH công cộng được tạm thời giao cho họ, thuế hay địa tô đánh
trên người nông dân là thù lao của họ. Trái lại, quyền tư hữu có tính thế
nghiệp và các đại địa chủ tạo được 1 quyền lợi lớn hơn từ quyền tư hữu này, về
mặt quyền lực chính trị-nhờ có trong tay những đội quân riêng gồm các nông nô
và lê dân; và về mặt khai thác kinh tế- bởi vì họ có thể tăng số địa tô theo ý
muốn (trong khi thuế lại do nhà nước ấn định)”.
Như
vậy Lê Thành Khôi bác bỏ quan điểm PTSXCA của các nhà mác xít trên 2 điểm
chính:
-Ở
Việt Nam thời quân chủ (Lê Thành Khôi cũng bác bỏ sự tồn tại của chế độ phong
kiến ở VN) nhà vua không phải là chủ sở hữu toàn bộ ruộng đất.
- Ở
Việt Nam thời quân chủ có quyền tư hữu đối với ruộng đất.
Ông
kết luận:
Nhiều
đặc tính Marx và Engels gán cho PTSXCA cần loại bỏ vì chúng không phù hợp với
thực tế, đặc biệt, “tình trạng nô lệ phổ quát”, “chế độ chuyên chế phương
Đông”, “thiếu vắng quyền tư hữu”, “sự trì trệ hàng nghìn năm”.
Những
nhận định của ông Lê Thành Khôi đúng sai chưa bàn, nhưng là có đóng góp vào
nghiên cứu lịch sử VN (không theo 5 hình thái và cũng không có PTSXCA kiểu
Marx), có nhiều chỗ cần ghi chép lại, và sau khi ghi chép xong có thể thưởng
mình 1 điếu thuốc. Cả cuốn sách của ông có rất nhiều chỗ đáng được hút thuốc
như vậy.
*
Tuy
vậy, giống như trong cả quyển sách của GS Khôi, có cả những chỗ ta thất vọng,
bực mình và có quyền chê trách, thì ngay phần PTSXCA cũng vậy, có những chỗ em
đọc thấy bất mãn quá đi.
Chẳng
hạn:
Có
thể vì say sưa với tinh thần dân tộc, có thể vì bực bội khi ai đó ở phương Tây
coi VN áp dụng trăm phần trăm hình mẫu Trung Hoa hay coi thường tư cách độc lập
của VN khi các vua VN cứ cầu phong hoàng đế TQ, ông dành hẳn 1 đoạn bình luận
chuyện này dù nó chẳng ăn nhập gì với câu chuyện PTSXCA đang bàn. Giả dụ ông
chứng minh TQ xưa có PTSXCA kiểu Marx, VN độc lập thật sự và khác TQ nên không
có PTSXCA thì đi 1 lẽ. Đằng này ông không bàn luận gì về chuyện có hay
không PTSXCA kiểu Marx ở TQ, chuyện VN không lệ thuộc chính trị, không phải chư
hầu của TQ chẳng liên quan gì đến đề tài đang bàn ở đây.
Những
chỗ rẽ ngang ra ngoài lề của GS Khôi nhiều lắm. Nhưng nó là nội dung của 1 ghi
chép khác, dành tặng bạn Thuận em, người mấy hôm nay say sưa chủ đề bác Khôi
hơi nhiều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét