Thứ Bảy, 13 tháng 5, 2017

MỸ-XÔ-TRUNG (3)


5.Nhiệm kỳ thứ 2 của Reagan

Le Tran Hai’s facebook, 30/8/2014

Nhiệm kỳ 2 của Reagan kéo dài từ 20/1/1985 đến 20/1/1989. Trước đó, 11/1988, phó tổng thống của Reagan là George Bush giành chiến thắng trước đối thủ đảng Dân chủ, kéo dài thời gian cầm quyền của Đảng Cộng hòa ở Mỹ thêm 4 năm nữa.

Trong nhiệm kỳ 2 của Reagan có một số sự kiện đáng chú ý như vụ Iran-Contra bị phanh phui, Reagan đã thoát được những lời buộc tội, chỉ một số nhân sự cấp dưới của ông bị trừng phạt và vụ ném bom thủ đô Libya 4/86 với cớ là nước này ủng hộ các nhóm khủng bố. Tuy nhiên dấu ấn chính trong nhiệm kỳ 2 của Reagan là cuộc đối thoại với tân lãnh đạo Liên Xô.

*

Reagan-Gorbachev: Cắt giảm vũ khí

Reagan bắt đầu nhiệm kỳ 2 từ ngày 20/1/1985 thì 10/3 cùng năm, lãnh đạo xô viết Konstantin Chernenko qua đời ở tuổi 74, 1 ngày sau Mikhail Gorbachev được bầu làm tổng bí thư mới của Đảng. Gorbachev đã kinh hoàng nhận ra ông đang lãnh đạo 1 nước “Thượng Volta có vũ khí hạt nhân” (Thượng Volta là 1 nước nghèo ở châu Phi), phát triển lệch lạc mất cân đối (quá tập trung vào công nghiệp quốc phòng, vũ trụ mà coi nhẹ công nghiệp nhẹ, nông nghiệp và dịch vụ), thiếu linh hoạt (nền kinh tế quan liêu bao cấp kế hoạch hóa đến từng con ốc vít), một xã hội bị tuyên truyền lố bịch che giấu sự thật, 1 CNXH không có gương mặt con người. Như những quốc gia ở thế giới thứ 3, Liên Xô là nước bán tài nguyên (dầu lửa, khí đốt) để mua hàng kỹ thuật cao và cả lương thực. Khi giá dầu giảm mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm theo. Tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân giảm từ 7% đầu thập niên 70 xuống còn 2,6% năm 1982, khi Brezhnev qua đời. Chờ Gorbachev là 1 cuộc khủng hoảng toàn diện.

Tiếp đó vụ nổ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl (Ukraina) ngày 26/4/86 làm hơn 4000 người chết, vụ động đất kinh hoàng ở Armenia năm 1988 là những đòn giáng tiếp theo với đất nước Liên Xô trong giai đoạn này.

Cuộc chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Mỹ là 1 cuộc đua hao tài tốn của cho cả 2 và trong thâm tâm bên nào cũng muốn dừng lại. Nhưng bên nào mỏi mệt hơn sẽ phải chấp nhận thiệt thòi hơn trong thỏa thuận ngừng đua. Reagan đã nhận diện rất nhanh sự mỏi mệt ở Gorbachev và ông đã chuyển kịp thời từ chính sách thập diện mai phục trong nhiệm kỳ đầu sang diễn biến hòa bình với Liên Xô, từ diều hâu sang bồ câu, quay lại với những cuộc đàm phán giải trừ quân bị của những người tiền nhiệm. Khi tái khởi động các cuộc hòa đàm về cắt giảm vũ khí, Reagan chỉ nghĩ đến 1 thỏa thuận cắt giảm có lợi nhiều hơn cho Mỹ và đồng minh. Càng đàm phán nhiều hơn với Liên Xô, càng tìm hiểu nhiều hơn về Liên Xô, Reagan đã bắt đầu nghĩ đến việc đánh gục CNCS trên đất nước từng là đối thủ số 1 của Mỹ.

19/11/85: Reagan gặp Gorbachev ở Geneva, Thụy Sĩ.

2 ông đồng ý về nguyên tắc cắt giảm 50% các loại vũ khí tiến công chiến lược. Riêng với tên lửa tầm trung INF (Intermediate-range Nuclear Forces), 2 bên thỏa thuận cắt giảm dần số tên lửa đã triển khai ở châu Âu tiến tới triệt tiêu hẳn. Gorbachev đề xuất tính gộp số tên lửa của Anh và Pháp vào nhưng cả Mitterand và Thatcher cùng phản đối.

3/86: Gorbachev tuyên bố Liên Xô không mưu tìm sự cân bằng quân sự với Mỹ, mà chỉ cần 1 tình trạng đầy đủ hợp lý trong sức mạnh quân sự.

Ông còn làm phương Tây kinh ngạc khi tuyên bố sẵn sàng thương lượng 1 hiệp ước về tên lửa tầm trung trên cơ sở phương án 0-0 mà Mỹ từng đề xuất trước đây, theo đó Liên Xô sẽ phá hủy toàn bộ tên lửa SS-20, kể cả phần đặt ở châu Á đổi lấy việc Mỹ phá hủy số tên lửa (ít hơn) Pershing II và Cruise ở châu Âu, đồng thời không đề cập đến số tên lửa hiện có của Anh và Pháp.

11/10/86: Reagan gặp Gorbachev ở Reikyavich, Iceland.

Gorbachev nhắc lại sáng kiến cắt giảm 50% vũ khí chiến lược, trong đó đưa vào danh sách loại tên lửa SS-18 mà người Mỹ rất lo ngại, kế hoạch giải trừ INF nhưng gắn với yêu cầu Mỹ ngừng thực nghiệm SDI trong 10 năm. Mỹ đồng ý hủy toàn bộ tên lửa đạn đạo nhưng không từ bỏ SDI. Do vậy,  không có thỏa thuận nào được ký.

4/87: Tiếp ngoại trưởng Mỹ ở Liên Xô, Gorbachev đồng ý phá hủy không chỉ SS-20 mà cả SS-23 thuộc loại mới nhất.

8/12/87: Reagan và Gorbachev ký Hiệp ước về cắt giảm tên lửa tầm trung INF tại Washington. Theo đó: toàn bộ tên lửa mang đầu đạn hạt nhân có tầm hoạt động từ 500 đến 5500km sẽ bị tháo dỡ và phá hủy (Liên Xô hủy 331 tên lửa SS-12, 11 tên lửa SS-4, 300-350 tên lửa SS-12, SS-23 bố trí ở Đông Âu, Mỹ hủy 108 tên lửa Pershing II và 260 tên lửa Cruise bố tri ở Tây Âu, 72 tên lửa Pershing IA bố trí ở Tây Đức). Hiệp ước này là 1 bước ngoặt trong quan hệ đông-tây.

5/88: Reagan sang thăm Liên Xô, 11 ngày sau khi Liên Xô bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan. Không có thỏa thuận nào thêm về cắt giảm vũ khí, nhưng 2 bên đồng thuận: các vụ thử tên lửa đạn đạo sẽ được báo trước cho nhau 24 tiếng, ký thỏa ước về đánh cá và cứu hộ trên biển, 1 thỏa ước về hợp tác văn hóa, Gorbachev đề nghị thành lập 1 diễn đàn thường trực về nhân quyền bao gồm các nghị sĩ 2 nước.

12/88: Gorbachev sang Mỹ dự kỳ họp Đại hội đồng LHQ, gặp thêm Reagan lần thứ 5 (Reagan sẽ rời nhiệm sở vào 1/89, phó của ông là Bush đã thắng cử). Cuộc gặp này tuy không mang thêm 1 thỏa thuận cụ thể nào nhưng minh chứng cho việc quan hệ Xô-Mỹ đã chuyển từ thù địch sang hòa hoãn, báo hiệu chiến tranh lạnh sắp kết thúc.

*

Gorbachev: Những thay đổi ở Liên Xô

3/85: Gorbachev giữ chức TBT Đảng CS Liên Xô thay Chernenko vừa qua đời.

5/85: chiến dịch chống rượu được triển khai để giảm tỷ lệ tử vong. Giá bán các đồ uống có cồn tăng 45%, giảm SX rượu kéo theo sự khan hiếm đường ở các cửa hàng (do người dân tổ chức tự nấu rượu) và thất thu ngân sách.

Trong năm 1985, 1 dàn lãnh đạo mới dần dần được thế chỗ cho ê-kíp già nua từ thời Brezhnev: Yakovlev, Shevarnadze, Ryzhkov, Lukyanov, Yeltsin…, trong đó Yakovlev được coi là kiến trúc sư của cải tổ, Shevarnadze thế chỗ ngoại trưởng lâu năm Gromyko người được mệnh danh là “Mr.No”, còn Yeltsin sau khi được bổ nhiệm làm bí thư thành ủy Moskva (12/85) đã thay đổi hàng loạt lãnh đạo cấp dưới, thường xuyên đi kiểm tra tình trạng các cửa hàng, sử dụng phương tiện giao thông công cộng, tạo hình ảnh 1 nhà lãnh đạo thân dân và muốn đẩy nhanh cải cách.

2/86 tại Đại hội 27 Đảng CS Liên Xô, Gorbachev công bố chính sách perestroika (cải tổ) và glasnost (công khai). Với glasnost, sự kiểm soát báo chí được giảm thiểu, nhiều đề tài trước đây bị coi là cấm kỵ đã được gỡ bỏ cho phép thảo luận, những ý kiến đa chiều (tuy chưa được phép đụng đến những cốt lõi của thể chế) được chấp nhận, nhiều nạn nhân của những vụ án oan sai trong quá khứ (đặc biệt là thời Stalin) được phục hồi danh dự, nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật trước đây bị cấm đoán được phép lưu hành…

Để cải tổ cấu trúc lại nền tảng chính trị, đẩy mạnh đấu tranh chống tầng lớp quan liêu, trong quan hệ quốc tế từ bỏ lối tiếp cận mang tính giai cấp, cải thiện quan hệ với phương Tây (Shevarnadze triển khai rất nhiệt tình) và chấp nhận bỏ rơi nhiều đồng minh ở những nơi Liên Xô không coi là quyền lợi ưu tiên số 1 (trong đó có vụ Liên Xô làm ngơ để TQ chiếm 3 đảo trong quần đảo Trường Sa của VN vào 3/88), trong kinh tế bước đầu cho phép sở hữu cá nhân đối với tư liệu sản xuất, ban đầu dưới hình thức hợp tác xã-kooperativ (gắn liền với Luật về Hoạt động Lao động Cá thể 11/86), cũng như thành lập các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài.

4/86: Thảm họa Chernobyl. Hơn 4000 người chết, di hại nặng nề.

12/86: Nhân vật bất đồng chính kiến lừng danh, Sakharov được rời nơi quản thúc và trở về Moskva.

12/86: Giới trẻ Kazakhstan biểu tình phản đối việc Kremli điều 1 nhân vật chưa từng sống ở Kazakhstan là Kolbin về làm bí thư thứ nhất Đảng CS Kazakhstan (thay Kunaev bị cách chức), đòi hỏi phải bổ nhiệm người địa phương làm lãnh đạo Kazakhstan. Quân đội dẹp biểu tình.

3/87: Thủ tướng Anh Thatcher có cuộc trả lời phỏng vấn 45 phút trên đài truyền hình Liên Xô.

5/87: Chàng thanh niên Tây Đức 18 tuổi Mathias Rust lái máy bay cá nhân hạ cánh xuống Hồng trường. Anh bị bắt giữ cho đến 8/88 mới được trả tự do.

11/87: Boris Yeltsin, người nhiều lần chỉ trích tốc độ cải tổ chậm chạp của Gorbachev và đòi loại bỏ cánh bảo thủ ra khỏi BLĐ (đại diện là Ligachev) trong các cuộc họp nội bộ lãnh đạo đảng, bị cách chức bí thư thành ủy Moskva.

2/88: tỉnh tự trị Nagorno-Karaback thuộc nước CH XHCN Xô viết Azerbaijan (nhưng dân cư chủ yếu là người Armenia) ra quyết định tách khỏi Azerbaijan để gia nhập Armenia, châm ngòi cho cuộc chiến tranh Nagorno-Karabakh, cuộc xung đột sắc tộc lớn đầu tiên ở Liên Xô thời Gorbachev.

3/88: Báo Nước Nga Xô viết (diễn đàn của phe bảo thủ) đăng bức thư ngỏ của bà giáo Nina Andreeva mang tên “Tôi không thể từ bỏ các nguyên tắc”, cảnh báo cải tổ của Gorbachev sẽ dẫn đến sự tan rã của CNXH và của Liên Xô.

5/88: Liên Xô bắt đầu rút quân khỏi Afghanistan

5/88: Reagan thăm Liên Xô, nói chuyện với 600 sinh viên MGU. Cũng chuyến đi này, Reagan tuyên bố không còn coi Liên Xô là ác quốc nữa.

6/88: Tại hội nghị đảng lần 19, Yeltsin (đại biểu được bầu ở vùng Karelia) phát biểu trên diễn đàn, chỉ trích Ligachev, đả kích đặc quyền đặc lợi của ban lãnh đạo, khẳng định những năm tháng trì trệ không phải lỗi 1 mình Brezhnev mà là toàn thể bộ chính trị như 1 cơ quan lãnh đạo tập thể phải chịu trách nhiệm. Bài phát biểu này được đăng báo công khai.

6/88: 100 nghìn người biểu tình ở Estonia vừa tụ tập vừa ca hát những bài hát mang tinh thần dân tộc mở đầu cho phong trào đấu tranh đòi tách khỏi Liên Xô ở 3 nước Baltic, gọi là Singing Revolution. 9/88: 300,000 người biểu tình ở Estonia đòi độc lập.

6/88: Phong trào chính trị-xã hội đòi độc lập cho Litva, Sajudis, được thành lập.

10/88: Biểu tình đòi độc lập ở Latvia, Mặt trận Nhân dân Latvia ra đời.

11/88: Xô viết Tối cao nước CH XHCN Xô viết Estonia ra Tuyên ngôn về Chủ quyền của Estonia, theo đó luật pháp nước cộng hòa sẽ có giá trị cao hơn luật pháp của liên bang xô viết. 12/88 tiếng Estonia trở thành ngôn ngữ chính thức ở Estonia.

12/88: Động đất ở Armenia (6.9 độ Richter) làm gần 25000 người chết, 15000 người bị thương và 400000 người mất nhà cửa.

12/88: Thông qua luật về bầu cử đại biểu nhân dân Liên Xô. Cuộc bầu cử QH năm sau (1989) sẽ theo hình thức demi-dân chủ (nửa cử nửa bầu, phần bầu có tranh luận công khai)

Trở thành người lãnh đạo số 1 của 1 siêu cường như Liên Xô, Gorbachev có trong tay 1 quyền lực vô biên. Nhưng ông đã tiến hành cải cách chính trị dù thừa hiểu cuộc cải cách đó sẽ làm xói mòn quyền lực của chính mình. Tuy nhiên mục tiêu cải cách như ý tưởng ban đầu vẫn là bảo vệ chế độ XHCN, mang lại cho nó 1 nét nhân bản hơn, khiến những người cấp tiến bắt đầu coi tốc độ cải cách chính trị của ông là chậm.

Cũng có tiến hành cải cách kinh tế, nhưng mới ở mức độ rụt rè (cũng vì không muốn lùi quá xa khỏi nền tảng lý thuyết của kinh tế XHCN) như phần nào chấp nhận doanh nghiệp tư nhân với rất nhiều ràng buộc từ lĩnh vực hoạt động đến số nhân công làm thuê nên chưa có 1 nền kinh tế thị trường thực sự. Nền kinh tế tiếp tục xuống dôc không phanh khiến người dân hoặc là ủng hộ phe bảo thủ  (Ligachev) muốn níu giữ quá khứ, hoặc là ủng hộ phe cấp tiến (Yeltsin) muốn cải cách nhanh hơn, uy tín của Gorbachev đến cuối 1988 bắt đầu xuống thấp (khác với hình ảnh được ưa chuộng của ông ở phương Tây). Ngoài ra những cuộc xung đột sắc tộc bắt đầu xuất hiện, báo hiệu sự tan rã của siêu cường.

Nhìn tổng thể, cải cách chính trị của Gorbachev đi nhanh hơn cải cách kinh tế, đó là khác biệt lớn nhất giữa ông với Đặng Tiểu Bình.

*

Phe Liên Xô.

Dưới ảnh hưởng của Liên Xô, các nước XHCN trong phe Liên Xô đều có những cải cách nhất định, trong đó Ba Lan và Hungary được coi là cải cách với tốc độ nhanh hơn các nước còn lại, một số nhà lãnh đạo già (Kadar ở Hungary, Husak ở Tiệp) đã phải rút lui, một số nhà lãnh đạo trước đây cứng rắn (Jaruzelski của Ba Lan, Trường Chinh của VN) đã kịp thích ứng với sự thay đổi.

Việt Nam cũng tiến hành cải cách.

Sau khi Lê Duẩn qua đời, 3/86 Trường Chinh trở thành TBT Đảng CS VN. Nhà lãnh đạo nổi tiếng giáo điều trong quá khứ (trực tiếp chịu trách nhiệm vụ cải cách ruộng đất, giải tán cuộc khoán hộ của Kim Ngọc…) đã trở nên thức thời và hỗ trợ những thay đổi.  12/86 tại Đại hội Đảng, ê kíp lãnh đạo lâu năm đồng loạt rút lui để 1 gương mặt mới là Nguyễn Văn Linh trở thành TBT Đảng, tuyên bố về công cuộc đổi mới. Nền kinh tế bắt đầu hướng về thị trường và mau chóng có những thay đổi ấn tượng.

Trong đối ngoại, noi gương Liên Xô, VN cũng tìm cách rút lui khỏi thế bị cô lập vì vụ Campuchia. Các cuộc tiếp xúc với các nước ASEAN được triển khai hòng tìm kiếm 1 giải pháp hòa bình cho Campuchia, chấp nhận sẽ phải rút lui quân đội VN khỏi Campuchia và chính quyền Phnom Penh có thể không còn 100% trong vòng ảnh hưởng của Hà Nội nữa.

*

Trung Quốc

Cải cách kinh tế ở TQ đã thành công đến mức nhiều người nói tới con đường TQ để so sánh với con đường cải cách chính trị còn đang mò mẫm của Gorbachev ở Liên Xô.

Vài dấu hiệu đòi hỏi cải cách chính trị ở TQ đã xuất hiện, cụ thể là các hoạt động đòi tự do hóa của sinh viên trường ĐH Khoa học công nghệ Hợp Phì, tỉnh An Huy 12/86. TBT Đảng CS TQ Hồ Diệu Bang đã từ chối thực hiện yêu cầu của Đặng Tiểu Bình đuổi ra khỏi đảng 3 vị trí thức được coi là đứng đằng sau các hoạt động này. Vì sự cứng đầu của Hồ, 1/87 Đặng Tiểu Bình đã truất quyền TBT Đảng của ông, giao cho Triệu Tử Dương giữ. Hồ Diệu Bang bị loại khỏi đời sống chính trị TQ.

4/87 TQ đạt được thỏa thuận với Bồ Đào Nha về việc Macau sẽ trở về với TQ vào năm 1999.

3/88 quân đội TQ đã tấn công quân đội VN ở quần đảo Trường Sa, chiếm bãi đá Cô Lin, bãi đá Len Đao và bãi đá Gạc Ma trước đó do VN kiểm soát. Trận hải chiến Trường Sa này, phía VN có 64 chiến sĩ hy sinh. Liên Xô không có động thái nào ủng hộ VN dù họ có căn cứ quân sự tại Cam Ranh.

*

Vẫn duy trì quan hệ với Liên Xô, song Bắc Triều tiên được coi là gần gũi với TQ hơn Liên Xô. Chẳng hạn trong vấn đề Campuchia, BTT có quan điểm ủng hộ phe TQ, công nhận chính phủ 3 phái Campuchia dân chủ do hoàng thân Sihanouk đứng đầu, Bình Nhưỡng là nơi tá túc thường xuyên của hoàng thân.

Trong những năm cuối thập niên 80, sự bùng nổ của những nước công nghiệp mới, trong đó có Hàn Quốc là rất ấn tượng, trong đó kỳ thế vận hội Seoul 1988 đã phô ra hình ảnh hào nhoáng của Hàn Quốc. Nhiều nước XHCN Đông Âu, đi đầu là Hungary, đã tìm kiếm quan hệ kinh tế với Hàn Quốc (Hungary sẽ là nước XHCN đầu tiên chính thức lập quan hệ ngoại giao với Hàn Quốc vào 1/89) bất chấp sự phản đối của Bình Nhưỡng.

 

6.Nhiệm kỳ của Bush 41-Kết thúc chiến tranh lạnh

Le Tran Hai’s facebook, 6/9/2014

George Herbert Walker Bush, còn gọi là Bush cha hay Bush 41 (tổng thống thứ 41 của Mỹ, phân biệt với con trai ông là Bush con, Bush 43), cựu giám đốc CIA, cựu đại sứ Mỹ tại TQ, phó tổng thống của Reagan, nhậm chức tổng thống ngày 20/1/1989. Ông chỉ giữ ghế tổng thống 1 nhiệm kỳ (89-92) vì đã bị thua Bill Clinton (đảng Dân chủ) trong cuộc tranh cử tổng thống 11/1992. Thất bại của ông năm 1992 khép lại 12 năm (3 nhiệm kỳ) liên tục cầm quyền của đảng Cộng hòa, cũng là giai đoạn nước Mỹ lên đỉnh vì chiến thắng trong chiến tranh lạnh.

*

Chiến thắng trong Chiến tranh lạnh.

Đông Âu đổi màu

Đã có 1 post chi tiết về các sự kiện năm 1989 -năm một loạt nước XHCN Đông Âu từ bỏ chế độ CS. Diễn biến chi tiết ở mỗi nước khác nhau, nhưng kịch bản cùng na ná:

Những lãnh tụ CS cứng rắn bị mất quyền lực (một số vị đã mất chức từ trước 1989, một số vị mất chức trong năm 89 như: Honecker ở Đông Đức-10/89, Husak ở Tiệp-rời chức lãnh đạo đảng từ 87, mất nốt chức tổng thống -11/89, Givkov ở Bulgaria-11/89, Ceausescu bị xử tử ở Rumani-12/89)

Những lãnh tụ CS ôn hòa/đổi mới nắm quyền buộc đảng của mình (và QH) từ bỏ chế độ độc đảng, đảng CS chuyển đổi thành xã hội dân chủ, chấp nhận đối thoại với phe đối lập (trước đó là những lực lượng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật), tổ chức bầu cử đa đảng. Từ bỏ ý thức hệ CS để trở thành 1 quốc gia theo dân chủ phương Tây, tên gọi đất nước thay đổi, lược bỏ hết những chữ “nhân dân”, “dân chủ”, “dân chủ nhân dân”… Quá trình này diễn ra ở Ba Lan, Hungary, Tiệp Khắc, Bulgaria, Rumani trong năm 1989, lan nốt sang Albania năm 1991.

Thời gian đầu, những người CS đổi mới/đổi màu cộng sinh với những người phi CS trong các chính quyền chuyển tiếp (tổng thống CS Jaruzelski và chính phủ phi CS của Mazowiecki ở Ba Lan từ 8/89 là ví dụ đầu tiên).

Sau một thời gian hoàn thiện các thiết chế luật pháp mới, các cuộc bầu cử mới theo hiến pháp mới, những người CS đổi màu dần dần rời khỏi chính quyền (Walessa thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống Ba Lan 12/90, kỷ nguyên Jaruzelski kết thúc). Cho đến 10/91, khi Liên minh Dân chủ giành chiến thắng trước Đảng Xã hội trong cuộc bầu cử QH Bulgaria, ở Đông Âu không còn 1 chính phủ “cộng sản cũ” nào nữa.

Sau này, ở một số nước, những đảng chính trị của những người CS cũ suy yếu trở thành những lực lượng không đáng kể (ví dụ những người CS Đông Đức cũ), ở một số nước khác, những người CS cũ-XHDC mới có dịp trở lại nắm quyền, nhưng họ đã thực sự là XHDC, tôn trọng các giá trị dân chủ phương Tây và không còn là mối nguy cho Mỹ nữa.

Riêng sự sụp đổ của CNCS ở Đông Đức dẫn đến việc thống nhất nước Đức. 11/89: bức tường Berlin sụp đổ. Quá trình bàn thảo việc thống nhất nước Đức diễn ra ngay sau đó. Ban đầu Liên Xô phản đối 1 nước Đức thống nhất là thành viên NATO, nhưng sau đó Liên Xô được trấn an bằng các cam kết:

Nước Đức thống nhất vĩnh viễn tôn trọng đường biên giới hiện tại với Ba Lan, NATO không mở rộng việc bố trí lực lượng sang phía đông, lực lượng Đức thuộc biên chế NATO không đóng quân trên đất Đông Đức cho đến 1994, quân số Đức không được vượt quá 37 vạn và không được trang bị các loại vũ khí hạt nhân, vi trùng và hóa học.

7/90: 2 nước Đức thống nhất về kinh tế, sử dụng 1 đồng tiền chung.

9/90 cuộc đàm phán cuối cùng giữa 2 nước Đức với 4 nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp đã thống nhất chấp thuận 1 nước Đức thống nhất trong NATO.

3/10/90 nước Đức thống nhất ra đời. Thủ tướng Tây Đức Kohl sau này thắng lợi trong cuộc bầu cử, trở thành thủ tướng nước Đức thống nhất.

Vào 11/90, mặc dù đảng CS vẫn cầm quyền ở Liên Xô, một số đảng CS cũ-đổi màu vẫn nắm quyền ở Đông Âu, nhưng xu thế hòa bình, thân phương Tây đang ngự trị nên từ 19-21/11: lãnh đạo Canada, Mỹ và 32 nước châu Âu đã gặp nhau ở Paris để chính thức tuyên bố chấm dứt chiến tranh lạnh (điều mà Bush và Gorbachev đã nói đến 1 năm trước đó, ở Malta) và thông qua Hiến chương Paris về 1 châu Âu mới. Cũng trong năm 1990, Gorbachev đã được trao giải Nobel hòa bình.

Với những diễn biến như vậy, Đông Âu không còn là đồng minh của Liên bang CH XHCN Xô viết (Liên Xô) nữa, nên các liên minh do Liên Xô đứng đầu cùng chấm dứt sự tồn tại.

6/91: khối kinh tế SEV (tiếng Anh: Comecon)-Hội đồng Tương trợ Kinh tế, tuyên bố giải thể sau phiên họp ở Budapest.

7/91: khối quân sự Warszawa tuyên bố giải thể. Trước đó, Liên Xô đã tổ chức nhiều đợt rút quân khỏi các nước Đông Âu, cũng như xin lỗi (4/90) vì hành vi thảm sát người Ba Lan ở Katyn sau Thế chiến II.

*

Liên Xô nhượng bộ Mỹ ở khắp các mặt trận

Quá trình tự do hóa ở Đông Âu diễn ra một cách gọn gàng có nhiều lý do, trong đó có 1 lý do là dân chúng, phe tranh đấu lẫn những người CS đổi màu ở các nước Đông Âu không phải lo ngại 1 sự can thiệp quân sự của Liên Xô để bảo vệ chế độ cứng rắn nữa. Họ đều nhìn thấy Liên Xô xuống thang trước phương Tây trên khắp các mặt trận.

Các cuộc đàm phán về giải trừ quân bị giữa Gorbachev với Bush vẫn tiếp tục và Liên Xô sẵn sàng cắt giảm lực lượng quân sự nhiều hơn.

7/91 tại Moskva, Liên Xô và Mỹ ký hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược giai đoạn 1 (START 1): cắt giảm một nửa tên lửa đạn đạo xuyên lục địa hạng nặng của Liên Xô, trong khi cơ cấu lực lượng hạt nhân Mỹ với hạm đội tàu ngầm trên thực tế cắt giảm không đáng kể.

Liên Xô hoàn tất việc rút quân khỏi Afghanistan vào 2/89, đẩy chính quyền thân Liên Xô Najibullah vào thế cô độc khi đối đầu với phong trào Hồi giáo. 4/92: Najibullah bị lật đổ, tuy nhiên ngay sau đó là cuộc xung đột không kém đẫm máu giữa các phe nhóm Hồi giáo khác nhau (Shiite với Sunni, Massod với Hekmatyar) gọi là cuộc nội chiến 92-96 ở Afghanistan.

Liên Xô buộc Cuba phải rút quân khỏi Angola vào 1/89 và chấm dứt trợ giúp kinh tế và quân sự cho Cuba vào 9/91.

Việt Nam cũng hoàn tất việc rút quân khỏi Campuchia vào 9/89 và Hiệp định hòa bình cho Campuchia được ký vào 10/91.

Các chế độ thân Liên Xô trước đây hoặc là sụp đổ, như chính quyền mặt trận Saldino ở Nicaragua (thua cuộc trong cuộc bầu cử 2/90, bà Chamorro thay Daniel Ortega trở thành tổng thống Nicaragua vào 4/90) hay nhà độc tài Ethiopia Mengistu Haile Mariam (thoát được cuộc đảo chính 89 nhưng cuối cùng vẫn bị lật đổ và phải chạy trốn sang Zimbabwe vào 5/91), một số chấp nhận đàm phán hòa bình với phiến quân (Angola, Mozambique), tiếp tục nắm quyền sau các cuộc bầu cử tự do nhưng không còn theo chủ nghĩa Marx và thách thức phương Tây nữa.

Cho đến cuối kỷ nguyên Bush, chỉ còn một số ít nước theo hệ tư tưởng XHCN không được phương Tây ưa chuộng là Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Bắc Triều tiên và Cuba.

*

Liên Xô từ bỏ CNCS và tan rã

3/89: Liên Xô tổ chức bầu cử QH. Phe tự do giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử tổ chức ở các nước Baltik, ở Moskva, Leningrad và một số trung tâm công nghiệp khác. Chẳng hạn ở Moskva, cựu lãnh đạo CS bị thất sủng Boris Yeltsin, dù bị vùi dập tơi bời trên các phương tiện truyền thông,vẫn giành thắng lợi ấn tượng: gần 90% cử tri Moskva bỏ phiếu ủng hộ ông. Thắng lợi của Yeltsin không chỉ bởi ông đưa ra những khẩu hiệu tự do làm hài lòng giới trí thức liberal mà còn ở những khẩu hiệu dân túy chống đặc quyền đặc lợi. 1 nhân vật bất đồng chính kiến lừng danh khác là viện sĩ Sakharov cũng được bầu vào QH Liên Xô.

Ngay sau đó 1 liên minh các đại biểu ủng hộ bãi bỏ điều 6 Hiến pháp Liên Xô về độc quyền lãnh đạo Đảng CS đã ra đời, gọi là Nhóm Các đại biểu Liên Vùng (MDG) do Yeltsin, Sakharov và 3 đại biểu khác làm đồng điều phối viên. Quan điểm của họ dần dần đã được một số tờ báo truyền đạt công khai.

5/89 khi QH Liên Xô (đa số vẫn là phe bảo thủ) không bầu Yeltsin vào Xô viết Tối cao, 1 đại biểu đã trúng cử đã nhường ghế của mình cho Yeltsin.

12/89: Gorbachev gặp Giáo hoàng John Paul II, cam kết bảo đảm tự do tín ngưỡng ở Liên Xô.

Cũng trong tháng 12, nước CH XHCN Xô viết Litva đơn phương từ bỏ độc quyền lãnh đạo của Đảng CS, và chính đảng CS ở Litva tan rã làm 2: đa số ủng hộ lãnh đạo đảng Brazauskas tuyên bố đảng CS Litva tách khỏi đảng CS Liên Xô, 1 nhóm thiểu số (được người nói tiếng Nga ủng hộ) lập thành đảng CS Litva nằm trong đảng CS Liên Xô.

Sau 1 quá trình tranh đấu ôn hòa giữa những người tự do và những người bảo thủ, 2/90 đến lượt Đảng CS Liên Xô chính thức từ bỏ độc quyền lãnh đạo. Điều này được QH Liên Xô hợp thức tại cuộc họp vào tháng 3/90.

Nền chính trị đa đảng được thiết lập ở Liên Xô. Đảng chính trị đầu tiên đăng ký thành lập lại không phải là 1 tổ chức của những người dân chủ, mà là đảng Dân chủ Tự do do 1 chính khách lúc đó còn bí ẩn, Zhirinovsky lãnh đạo. Bản thân các “ông lớn” trong phong trào dân chủ Nga như Yeltsin, Popov, Sobchak không lập chính đảng riêng mà thành lập phong trào Nước Nga Dân chủ, chuẩn bị cho cuộc bầu cử QH Nga. Một số đảng chính trị theo xu hướng dân chủ ra đời như đảng Dân chủ, đảng Dân chủ Xã hội… nhưng các đảng này yếu, nội bộ lủng củng, đường lối hay thay đổi theo sự dịch chuyển của một số chính khách, và các thủ lĩnh của họ nếu được biết đến thì chủ yếu là do cùng hòa vào dòng chảy chung của phong trào Nước Nga Dân chủ.

QH Liên Xô 3/90 thông qua nền chính trị cộng hòa tổng thống theo kiểu Mỹ và Gorbachev được bầu làm tổng thống (đầu tiên) của Liên Xô với nhiệm kỳ 5 năm.

Kết quả bầu cử QH Nga, phe Nước Nga dân chủ thắng ở các thành phố lớn, họ và những người có thiện cảm với họ tạo thành 1 phe đa số chông chênh trong QH Nga, đủ để đưa Yeltsin lên chức chủ tịch XVTC nước CH XHCN LB Nga vào 5/90. Để mở rộng lực lượng, Yeltsin bắt tay với một số chính khách “giữa dòng” như đưa Khasbulatov làm phó cho mình.

Ở Moskva và Leningrad, phe Nước Nga Dân chủ chiếm đa số ghế trong xô viết địa phương và Popov, Sobchak lần lượt trở thành người đứng đầu xô viết các thành phố này.

Tuy nhiên những nhà lãnh đạo dân chủ Nga chưa thể triển khai các chính sách của mình vì luật pháp, chính sách vẫn trong tay chính quyền trung ương (Liên Xô). 12/6/90: QH Nga ra tuyên bố về chủ quyền, bắt đầu cho 1 cuộc chiến tranh luật pháp giữa chính quyền Nga và chính quyền Liên Xô, bên nào cũng đòi luật của mình có hiệu lực cao hơn. Ngày 12/6 do vậy được coi là ngày nước Nga hồi sinh, quốc khánh Nga sau này. Cũng trong tháng 6, những người CS Nga thành lập đảng riêng của mình.

Song song với cải cách chính trị, cải cách kinh tế cũng bắt đầu triển khai ở Liên Xô và từ “kinh tế thị trường” không còn là cấm kỵ nữa. 1 chương trình cải cách cấp tiến gọi là chương trình 500 ngày ra đời, tác giả chủ chốt là nhà kinh tế trẻ Yavlinsky, hứa hẹn sẽ chuyển đổi nền kinh tế Liên Xô từ quan liêu bao cấp sang thị trường sau 500 ngày. Chương trình này ban đầu được cả Gorbachev và Yeltsin ủng hộ, nhưng cuối cùng Gorbachev lại ngả về chương trình tốc độ từ từ hơn được thủ tướng Ryzhkov và nhà kinh tế Abalkin đề xuất, còn Yeltsin không có quyền lực để triển khai 500 ngày (92, khi ông có thực quyền, ông lại không tin dùng Yavlinsky và hướng tới những kế hoạch kinh tế khác).

Nhận thấy lãnh tụ nhiều nước cộng hòa cùng có xu hướng bất tuân Kremli, Yeltsin mau chóng bắt tay với 2 lãnh tụ CS có xu hướng ly tâm ở Ukraina và Kazakhstan là Kravchuk và Nazarbayev hợp đồng tác chiến, đấu tranh giành nhiều quyền lực hơn cho các nước cộng hòa. Lãnh đạo các nước cộng hòa khác (trừ 3 nước Baltik tuyên bố độc lập, đặt vấn đề tách hẳn khỏi Liên Xô; các nước cộng hòa khác mới giới hạn đấu tranh với Kremli ở chỗ tuyên bố chủ quyền, đặt luật pháp nước cộng hòa lên trên luật pháp liên bang) dần dần cũng hưởng ứng cuộc tranh đấu này.

11/90: Gorbachev thành lập Hội đồng Liên bang, là 1 cơ cấu quy tụ lãnh đạo 15 nước cộng hòa. Ông thường xuyên đàm phán với họ trong các cuộc gặp ở Novo-Ogaryovo để bàn về 1 cơ cấu mới cho Liên Xô, hòng bảo vệ được sự tồn tại của Liên Xô, chấp nhận gia tăng quyền lực cho các nước cộng hòa.

12/90: Ngoại trưởng Shevarnadze đột ngột tuyên bố từ chức và cảnh báo về 1 nền độc tài đang đến gần.

1/91: được Gorbachev cho phép, quân đội Liên Xô vào Vilnius đàn áp phong trào độc lập ở Litva. Vì sự biến tháng giêng này, bà Bonner, vợ góa Sakharov đòi trả lại giải Nobel của chồng vì không muốn Sakharov đứng cạnh Gorbachev trong cùng 1  danh sách còn chủ tịch XVTC Nga Yeltsin đòi truất quyền Gorbachev. Tuyên bố này của Yeltsin bị 6 nhà lãnh đạo QH Nga phản đối và 2 đồng minh của ông trong cuộc đấu chủ quyền là Kravchuk, Nazarbayev cũng khó chịu khi ông tuyên bố đơn phương không tham vấn họ (báo hiệu sau này khi Liên Xô tan rã, các nước cộng hòa khác không dễ dàng tiếp nhận vai trò anh cả của Nga).

17/3/91: 1 cuộc trưng cầu dân ý tổ chức ở Liên Xô. Đa số dân Liên Xô ủng hộ việc duy trì 1 nhà nước chung của 15 nước cộng hòa anh em, nhưng trước đó, cũng thông qua trưng cầu ý dân, cử tri cả 3 nước Baltik cùng ủng hộ nước họ độc lập, tách khỏi Liên Xô (và sau đó, cũng trong tháng 3, thêm cử tri Gruzia đòi tách khỏi Liên Xô). Đây là 3 nước bị cưỡng bức sáp nhập vào Liên Xô sau 1 thỏa hiệp đi đêm giữa Liên Xô và Đức quốc xã, nên dư luận phương Tây  công khai ủng hộ nền độc lập của những nước này.

6/91: trên cơ sở luật pháp mới của Nga diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Nga, cuộc bầu cử tự do đầu tiên với sự tham gia của nhiều ứng viên. Ngoài Yeltsin còn có Bakatin (cựu BT Nội vụ Liên Xô, có xu hướng đổi mới, được coi là thuộc phe Gorbachev), Ryzhkov (cựu thủ tướng Liên Xô-đảng CS, chấp nhận chuyển đổi sang kinh tế thị trường nhưng với tốc độ từ từ tránh liệu pháp sốc), Zhirinovsky (dân tộc cực đoan), Maskhadov (1 viên tướng theo quan điểm CS cứng rắn) và Tuleev (1 quan chức địa phương) ra tranh cử. Yeltsin giành thắng lợi ngay vòng đầu, còn Zhirinovsky với những quan điểm cực đoan đã buộc thế giới phải chú ý đến. Phó của Yeltsin là Rutskoy, 1 vị tướng có danh hiệu anh hùng Liên Xô, đứng đầu nhóm đại biểu CS ủng hộ đổi mới trong QH Nga. Tương tự như ở quy mô nước Nga, tại Moskva và Leningrad cũng diễn ra bầu thị trưởng, các ông Popov và Sobchak cùng chiến thắng.

12/6/91: Yeltsin trở thành tổng thống đầu tiên của nước Nga. Khasbulatov thay ông làm chủ tịch XVTC Nga.

Các cuộc đàm phán ở Novo-Ogaryovo vẫn tiếp tục trong năm 91 và những người CS cứng rắn lo ngại rằng cứ đà này thì Liên Xô sẽ tan rã.

8/91: Những người CS cứng rắn làm đảo chính lật đổ Gorbachev để ngăn chặn quá trình tan rã Liên Xô. Một Ủy ban Nhà nước về Tình trạng Khẩn cấp ra đời, có sự tham gia của phó tổng thống Yanaev và trùm KGB Kryuchkov, ra tuyên bố tổng thống Liên Xô tạm không thực thi quyền lực vì lý do sức khỏe, trên thực tế Gorbachev bị giam lỏng ở 1 nhà nghỉ tại Crimea.

Yeltsin, người vào 1/91 đòi truất quyền Gorbachev, 8/91 ra tuyên bố chống lại cuộc đảo chính vi hiến lật đổ vị tổng thống hợp pháp của Liên Xô. Khi phe đảo chính định lấn tới, đưa xe tăng đến gần tòa nhà QH Nga, Yeltsin trèo lên nóc xe tăng kêu gọi quân đội không chống lại nhân dân. Phương Tây ủng hộ Yeltsin nhiệt tình. Những người làm đảo chính hành động yếu ớt và tan rã, 1 người trong số họ là BT Nội vụ Pugo tự sát, những người khác bị bắt. Yeltsin đưa Gorbachev trở lại Moskva.

1 chính phủ liên bang mới được thành lập, không còn “những kẻ phản bội”, nhưng Yeltsin chứ không phải Gorbachev mới là người điều khiển cuộc chơi của chính quyền liên bang. Tại nhiều nơi, tượng một số lãnh tụ CS bị quật đổ, trong đó có tượng ông trùm KGB ở Moskva.

Nhân sự thất thế của những người CS cứng rắn, các nước cộng hòa đua nhau tuyên bố độc lập. Trong tháng 8/91: Iceland trở thành nước đầu tiên công nhận nền độc lập của 3 nước Baltik. 2/9, đến lượt Mỹ làm điều này.

9/91: Đại hội đại biểu toàn quốc Liên Xô giải thể, chỉ còn lại XVTC và Hội đồng Liên bang. Liên Xô công nhận nền độc lập của 3 nước Baltik.

Leningrad đổi tên thành St.Peterburg. Nhiều đường phố, bến xe tàu điện ngầm mang tên các lãnh tụ CS Liên Xô trước đây cũng được đổi lại.

11/91: Tổng thống Nga Yeltsin ra sắc lệnh cấm đảng CS Liên Xô hoạt động trên lãnh thổ LB Nga (đảng CS Nga không liên quan).

8/12/91: Yeltsin, Kravchuk và Shuskevich (lãnh đạo Belarus) gặp nhau ở rừng Belovezh (Belarus). Nhân danh 3 quốc gia khai sinh ra Liên Xô, 3 vị này tuyên bố khai tử nó và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG (CIS)-1 cộng đồng các quốc gia chứ không còn là 1 quốc gia nữa. Trong nội bộ những người Nga ủng hộ liên minh Yeltsin-Gorbachev sau 8/91 có những người không ủng hộ diễn biến này, song nó trở nên không đảo ngược được.

21/12: lãnh đạo 10/15 nước cộng hòa thuộc Liên Xô (trừ 3 nước Baltik, Gruzia và Azerbaijan) ký tên vào tuyên bố tham gia SNG thay cho Liên Xô đã giải thể.

24/12: Yeltsin gửi thư cho TTK LHQ thông báo nước Nga sẽ thế chỗ Liên Xô ở LHQ. 1 ngày sau Gorbachev từ chức tổng thống Liên Xô và 1 ngày sau đó nữa, XVTC Liên Xô tự giải thể, thừa nhận Liên Xô không còn tồn tại. Các cơ cấu chính quyền Liên Xô sẽ chấm dứt mọi hoạt động vào 31/12/91.

Từ năm 1992, không còn Liên Xô. Ở nước cộng hòa mạnh nhất thuộc Liên Xô là Nga, chính quyền trong tay Yeltsin-1 nhân vật chống CS và thân phương Tây. Lãnh đạo Baltik cũng là những người thân phương Tây. Gruzia đang có nội chiến giữa những người ủng hộ và những người chống đối tổng thống Gamsakhurdia. Tại các nước khác, những cựu lãnh đạo CS hóa thân thành những vị tổng thống các quốc gia độc lập, họ sẽ tiếp tục duy trì nền độc tài nhưng không còn là CS nữa.

Bush ca khúc khải hoàn.

*

Tan rã các liên bang ở châu Âu

1992 không còn Liên Xô nữa, nhưng các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ cũng đối mặt với việc duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ của mình. Ở Liên bang Nga, những mầm mống ly khai xuất hiện ở 2 nước cộng hòa: Tartarstan và Chechnya. Ở Ukraina, hòa vào cuộc tranh cãi thừa kế di sản Liên Xô cũ (Hạm đội Hắc hải) giữa Nga và Ukraina, những người nói tiếng Nga ở Crimea ra tuyên bố ly khai khỏi Ukraina nhưng sau khi thấy Yeltsin không ủng hộ, đã rút lại tuyên bố này, chỉ đòi được quyền tự trị. Ở Moldova, vùng Pridnestrovie tuyên bố ly khai trong khi 1 bộ phận chính giới Moldova lại muốn sáp nhập nước này vào Rumani. Ở Gruzia, bên cạnh nội chiến chống Gamsakhurdia, 2 khu vực Nam Osetia và Abkhazia cũng tuyên bố ly khai. Tại Nagorno-Karabakh, người Armenia và người Azerbaijan lại đánh nhau to trong năm 1992. Súng đã nổ, nhưng quy mô không khốc liệt như ở 1 nước liên bang khác là Nam Tư.

Nam Tư cũng là 1 liên bang với nước mạnh nhất là Serbia, ngoài ra còn có Montenegro, Macedonia, Croatia, Slovenia và Bosnia-Herzegovina. Trong lãnh thổ Serbia có vùng Kosovo chủ yếu là dân Albania có xu hướng ly khai rất cao. Trong khi đó trong lãnh thổ Croatia có vùng đất người Serbia sinh sống, và trong lãnh thổ Bosnia-Herzegovina có những vùng lãnh thổ của người Serbia, người Hồi giáo và người Croatia.

Nhiều cuộc chiến đã nổ ra trên lãnh thổ Nam Tư sau khi CNCS mất quyền uy.

3/89: 1 cuộc xung đột giữa chính quyền Nam tư với người Albania ở Kosovo làm 29 người chết.

12/90: 1 chính khách cứng rắn người Serbia là Milosevic trở thành tổng thống nước Serbia thuộc Nam Tư.

12/90: TCDY ở Slovenia: 94.8% cử tri ủng hộ Slovenia trở thành quốc gia độc lập, tách khỏi Nam Tư. 5/91 đến lượt cử tri Croatia làm điều tương tự.

6/91: Croatia và Slovenia cùng tuyên bố độc lập khỏi Nam Tư. Chính quyền LB Nam Tư không chấp nhận điều này, đưa quân đội vào Slovenia gây ra cuộc chiến tranh 10 ngày trong tháng 7 (cuộc chiến 1). Tuy nhiên sau đó, 2 bên phải ký thỏa ước đình chiến, Nam Tư phải chấp nhận nền độc lập của Slovenia.

Đối với Croatia, Nam Tư khuyến khích những người Serbia ở Croatia ly khai khỏi Croatia dẫn đến cuộc chiến Croatia (cuộc chiến 2) giữa chính quyền Croatia với những người Serbia ly khai được chính quyền Nam Tư hỗ trợ, leo thang dữ dội vào cuối 91.

9/91: Macedonia tuyên bố độc lập khỏi Nam Tư. Đây là nước duy nhất tuyên bố ly khai mà không dẫn đến chiến tranh, tuy nhiên dẫn đến tranh cãi với nước Hy Lạp về tên gọi Macedonia.

1/92: Người Serbia ở Bosnia tuyên bố thành lập quốc gia độc lập, đối đầu với người Hồi giáo và người Croatia ở Bosnia-Herzegovina. Trong khi đó Slovenia và Croatia được một loạt nước phương Tây công nhận độc lập.

2/92: LHQ thông qua nghị quyết 743 gửi lực lượng gìn giữ hòa bình UNPROFOR đến Nam Tư.

4/92:  QH Bosnia-Herzegovina không có đại diện người Seria tuyên bố độc lập khỏi Nam tư.

Người Serbia nổi dậy và được quân đội Nam Tư giúp đỡ, bắt đầu chiến tranh Bosnia (cuộc chiến thứ 3).

4/92: Mỹ công nhận nền độc lập của Croatia, Slovenia và Bosnia-Herzegovina. EC cũng công nhận Bosnia-Herzegovina. Nam Tư (kỳ thực là Serbia) trở thành 1 kẻ phá đám trong con mắt phương Tây (đội tuyển Nam Tư bị truất quyền dự giải bóng đá châu Âu Euro-92, đội thế chỗ là Đan Mạch sau đó đoạt chức vô địch)

28/4/92:  2 nước cộng hòa còn lại của Nam Tư là Serbia và Montenegro thành lập nhà nước mới gọi là CH Liên bang Nam Tư (Nam Tư mới). Sự ly khai của Slovenia, Croatia, Bosnia, Macedonia là buộc phải chấp nhận, nhưng Nam Tư mới (kỳ thực là Serbia) ủng hộ người Serbia ở Croatia và Bosnia tiến hành các cuộc chiến tranh Croatia và Bosnia sẽ còn kéo dài.

Trước đây LB Nam Tư là 1 nước XHCN không chịu ảnh hưởng của Liên Xô, Tito bị Stalin coi là kẻ phản bội CNCS. Nhưng những người Serbia trong thập niên 90 lại được Nga ủng hộ. Phe đối lập với TT Yeltsin ở Nga (cộng sản, dân tộc cực đoan, có vị thế ngày càng mạnh ở QH) ủng hộ Serbia nhiệt tình, chính quyền Yeltsin giành cho Serbia sự ủng hộ yếu ớt hơn do thời điểm này Yeltsin đang tranh thủ phương Tây.

Cuối 92 thêm 1 nước ở Đông Âu là Tiệp Khắc tan rã, nhưng ngược với Liên Xô và Nam Tư, sự ly dị giữa Czech và Slovakia diễn ra rất hòa bình.

7/92: tổng thống LB Tiệp khắc Havel (người Czech) thất bại trong việc ngăn cản những người bạn ông ở Slovakia ra tuyên bố độc lập, tách khỏi Tiệp Khắc, đã phải từ chức tổng thống.

11/92: QH Tiệp Khắc thống nhất chia tách đất nước thành Czech và Slovakia, bắt đầu từ 1/1/93.

12/92: QH Czech thông qua hiến pháp nước Czech độc lập. Havel sẽ lại tham gia tranh cử, nhưng để trở thành tổng thống Czech chứ không phải tổng thống Tiệp Khắc nữa.

*

Mỹ áp đặt luật chơi

Đối thủ chính là Liên Xô suy yếu và tan rã, một mặt Bush tung hoành ở các nơi, trừng trị những kẻ làm ông ta ngứa mắt, mặt khác chấp nhận quá trình dân chủ hóa ở một số nước trước đây được cai trị bởi những kẻ độc tài chống cộng.

Can thiệp vào Panama

5/89: Chính quyền Panama của tướng Noriega không công nhận kết quả bầu cử TT mà theo đó Noriega thua cuộc. Căng thẳng leo thang, Bush điều 1900 quân vào kênh đào Panama để bảo vệ kiều dân Mỹ.

Cuối 12/89: Mỹ bắt đầu chiến dịch Just Cause nhằm lật đổ Noriega, kẻ bị buộc tội là buôn lậu ma túy và 2 mang trong quan hệ với Mỹ và Cuba. 3/1/90 tướng Noriega nộp mình cho quân Mỹ.

1 chính quyền mới thân Mỹ ra đời ở Panama, nước sẽ quản lý kênh đào Panama rất quan trọng với Mỹ, từ 1999. 7/92: 1 tòa án ở Miami tuyên án 40 năm tù với Noriega vì tội buôn lậu ma túy.

Chống Saddam Hussein, giải phóng Kuwait

Từ chỗ được các nước vùng Vịnh ủng hộ trong cuộc chiến tranh với Iran (đã chấm dứt trong thời Reagan), Iraq chuyển sang xung đột với các nước này vì bất đồng trong chính sách dầu lửa và tranh chấp các giếng dầu. Nước Kuwait nhỏ bé láng giềng xưa nay vẫn được đảng Ba’ath coi là lãnh thổ của Iraq.

8/90: Saddam Hussein đưa quân vào Kuwait, dễ dàng chiếm nước này, tuyên bố từ nay Kuwait là 1 tỉnh của Iraq. HĐBA LHQ ngay lập tức phản ứng, cấm vận toàn cầu với Iraq. 1 liên minh quân sự gồm 12 nước Arab trong đó có cả những nước thân Mỹ như Ai Cập lẫn những nước trước đây thân Liên Xô như Syria ra đời để cùng chống Iraq.

9/90: Bush gặp Gorbachev ở Helsinki (Phần Lan) thảo luận về khủng hoảng vùng Vịnh, Liên Xô sẽ không chống lại chính sách của Mỹ đối với Saddam. Bush tuyên bố sẽ gửi quân đội đến giải phóng Kuwait.

11/90: HĐBA LHQ ra nghị quyết 78 cho phép can thiệp quân sự vào Iraq để giải phóng Kuwait

1/91: Ngoại trưởng Mỹ gặp ngoại trưởng Iraq nhưng không thống nhất được về kế hoạch Iraq rút quân khỏi Kuwait. QH Mỹ cho phép tổng thống dùng vũ lực để giải phóng Kuwait.

15/1: Hạn chót LHQ yêu cầu Iraq rút quân kết thúc, 16/1: chiến dịch Bão sa mạc do Mỹ đứng đầu, có sự tham gia của một số nước phương Tây và Arab bắt đầu. Sức chống trả của quân đội Iraq hóa ra rất yếu kém.

2/91: Iraq chấp nhận đề nghị ngừng bắn do Liên Xô đưa ra, nhưng trên thế thắng, Mỹ bác bỏ.

26/2: Saddam buộc phải rút quân khỏi Kuwait. 1 ngày sau Bush tuyên bố chiến thắng, chiến dịch quân sự chấm dứt.

3/91: các nhà lãnh đạo Kuwait hồi hương, nước Kuwait vẫn tồn tại trên bản đồ thế giới.

Sau đó, LHQ gia tăng các hoạt động đòi kiểm soát chương trình vũ khí hóa học của Saddam, áp đặt vùng cấm bay trên lãnh thổ Iraq để chống các hoạt động đàn áp của Saddam với người Kurdes, nhưng Bush chủ trương chưa lật đổ Saddam một khi thế cờ ở Trung Đông sau khi Saddam ra đi chưa rõ ràng.

Dân chủ hóa

Ở Chile

12/89: Bầu cử tổng thống tự do ở Chile

3/90: Patricio Aylwin nhậm chức tổng thống Chile, chấm dứt kỷ nguyên của nhà độc tài chống cộng Pinochet.

Ở Nam Phi

9/89: Frederik de Klerk thay Botha trở thành tổng thống mới của Nam Phi, bắt đầu tiến trình từ bỏ chủ nghĩa apartheid.

2/90: de Klerk gỡ bỏ lệnh cấm đảng ANC hoạt động và trả tự do cho Mandela.

3/90: Namibia giành độc lập từ tay Nam Phi.

5/90: Bắt đầu tiến trình đàm phán giữa CP Nam Phi với ANC.

6/90: Mandela đi thăm Canada và Mỹ

8/90: Xung đột nội bộ người da đen ở Nam Phi giữa người Xhosa và người Zulu, 500 người bị giết trong tháng 8. Đến 1/91 Mandela và Buthelezi (đảng Tự do Inkatha của người Zulu) thỏa thuận chấm dứt xung đột.

Ở Hàn Quốc

12/92: Kim Yong-sam thắng cử tổng thống Hàn Quốc, trở thành tổng thống dân sự đầu tiên của nước này.

*

Ai là đối thủ của Mỹ

Châu Âu?

Có hệ thống chính trị tương đồng, hầu hết những nước lớn ở châu Âu cũng là thành viên khối quân sự NATO do Mỹ cầm trịch, châu Âu sẽ không là đối thủ của Mỹ về chính trị-quân sự trong tương lai gần. Nhưng xu hướng nhất thể hóa châu Âu có thể sẽ ra đời 1 đối thủ lớn về kinh tế.

2/92: các nước EC ký hiệp ước Maastricht, ra đời Liên minh châu Âu (EU) với dự kiến sẽ có 1 cơ cấu phối hợp chặt chẽ hơn và thậm chí 1 đồng tiền chung. Tuy nhiên hiệp ước này cần phải được nhân dân các nước phê chuẩn.

6/92: Cử tri Đan Mạch bác bỏ hiệp định Maastricht.

Sẽ phải điều chỉnh một số nội dung hiệp ước để được người Đan Mạch đồng ý. Tuy nhiên xu thế nhất thể hóa đã rất rõ, về cơ bản được các nước châu Âu ủng hộ.

Mỹ cũng hoan nghênh 1 EU hùng mạnh, nhưng phải chuẩn bị khối kinh tế của mình.

8/92: Canada, Mexico và Mỹ tuyên bố đã đạt được thỏa thuận về Hiệp ước Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), chính thức ký vào 17/12. Tuy nhiên những người bảo thủ không tán thành NAFTA, lo ngại mở cửa thị trường (vốn, hàng hóa, lao động) cho Mexico sẽ dẫn đến việc người lao động nghèo Mexico ồ ạt vào Mỹ chiếm chỗ của người Mỹ. Vì vậy tại kỳ bầu cử tổng thống 92, ngoài đối thủ đảng Dân chủ Clinton, Bush còn phải đối đầu với 1 tài phiệt bảo thủ là Ross Perot.

Trung Quốc?

Tranh thủ hòa Mỹ trong nhiều năm, TQ đã tiến hành cải cách kinh tế thật ấn tượng. Tuy nhiên đến thời Bush, do vụ đàn áp đẫm máu sinh viên đòi dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn 6/89, quan hệ Mỹ-TQ đã xấu đi nhanh chóng.

Mỹ và phương Tây lên án hành động vi phạm nhân quyền của Bắc Kinh và rút lại nhiều chương trình hợp tác với TQ. Các hoạt động của các tổ chức kinh tế Mỹ như TDA, OPIC tại Trung Quốc lập tức bị dừng lại. Mỹ không ủng hộ các khoản cho vay của Ngân hàng Đầu tư và của IMF đối với TQ. Nhiều mặt hàng của TQ bị hạn chế nhập khẩu.

Quan hệ với TQ xấu đi, tuy chưa đến mức chuyển thành thù địch nhưng ít nhiều cản trở sự trỗi dậy của TQ. Sau này khi Clinton nắm quyền, ông ta tái lập chủ trương engagement và rồng Hoa lại được chắp cánh.

Sau khi CNCS sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, TQ trở thành anh cả của phe XHCN và những nước XHCN cựu thù của TQ, trong đó có VN và Cuba cũng dần dần nối lại quan hệ với TQ.

Quan hệ VN-TQ bị ách tắc bởi vấn đề Campuchia, thì  9/89, VN rút quân khỏi Campuchia và chính quyền thân VN của Hun Sen phải đàm phán với các phe phái khác cho 1 nền hòa bình ở Campuchia.

10/91 ký thỏa thuận chấm dứt chiến tranh Campuchia, tổ chức UNTAC của LHQ sẽ giám sát quá trình chuyển tiếp ở Campuchia, 1 chính phủ liên hiệp nắm quyền lãnh đạo Campuchia do Sihanouk đứng đầu. Việt Nam phải chấp nhận những diễn biến ở Campuchia không hoàn toàn theo ý mình và 1 nước Campuchia mới sẽ không thần phục VN nữa.

Trước đó, 9/90 tại Thành Đô (TQ), TBT Đảng CS VN Nguyễn Văn Linh, thủ tướng Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng đã gặp TBT Đảng CS TQ Giang Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng. Nhiều thỏa thuận trong hội nghị này không được công bố, nhưng từ đó VN và TQ chấm dứt quan hệ thù địch, để vài năm sau, VN càng ngày càng chịu ảnh hưởng của TQ về kinh tế lẫn chính trị.

Tuy nhiên tham vọng của TQ lúc này dường như vẫn chỉ loanh quanh mấy nước láng giềng (cũng như Nga chỉ lưu tâm đến các nước Liên Xô cũ) và chưa phải là đối thủ có thể thách thức Mỹ.

*

Bush giành thắng lợi trước các quốc gia đối thủ, đưa Mỹ lên vị thế siêu cường duy nhất. Người Mỹ cho rằng giờ đây nước Mỹ không còn đối thủ lớn nữa nên không cần 1 nhà lãnh đạo diều hâu nữa. Các vấn đề nội tại của nước Mỹ đáng quan tâm hơn. Và họ đã bỏ phiếu cho 1 ứng viên trẻ trung, dáng vẻ trí thức, hấp dẫn đàn bà, là Bill Clinton.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét